Offcanvas Section

You can publish whatever you want in the Offcanvas Section. It can be any module or particle.

By default, the available module positions are offcanvas-a and offcanvas-b but you can add as many module positions as you want from the Layout Manager.

You can also add the hidden-phone module class suffix to your modules so they do not appear in the Offcanvas Section when the site is loaded on a mobile device.

Thánh Hilarion sinh năm 291 tại Tabata, xứ Palestine. Lúc rời bỏ quê nhà Palestina để đến học ở Ai Cập, thánh nhân vẫn chưa gia nhập Giáo hội Công giáo. Tại Ai Cập, Hilarion học biết đức tin Công giáo, và chẳng bao lâu ngài được chịu phép Thanh tẩy. Khi ấy, Hilarion mới chỉ 15 tuổi. Sự kiện Hilarion trở về với Giáo hội đã bắt đầu một hành trình vinh quang dẫn ngài đến gần Thiên Chúa hơn. Sau đó, thánh nhân lên đường tới thăm viếng thánh Antôn tu rừng.

Thánh Marguerite cho chúng ta thấy, với ơn sủng của Thiên Chúa và sự cộng tác của con người, sự đau khổ có thể đưa đến lòng nhân hậu thay vì sự cay đắng.

Sinh ở Varennes, Gia Nã Ðại, cô Marie Marguerite Dufrost de Lajemmerais phải thôi học vào lúc 12 tuổi để giúp đỡ người mẹ goá. Tám năm sau cô kết hôn với Francois d'Youville; họ có sáu người con, trong đó bốn người chết khi còn nhỏ. Mặc dù chồng bà thích cờ bạc và buôn bán rượu lậu cho người thổ dân Mỹ Châu và đối xử với bà cách tàn tệ, bà Marguerite vẫn chăm sóc chồng với lòng thương mến trong hai năm trước khi ông từ trần vào năm 1730.

Dù phải chăm sóc hai con nhỏ và trông coi tiệm tạp hóa để trả nợ cho chồng, bà Marguerite vẫn thường giúp đỡ người nghèo. Khi các con đã khôn lớn, bà và một vài người bạn đã cứu nguy cho một bệnh viện ở Quebec đang trên đà suy sụp. Bà đặt tên cho cộng đoàn của bà là Các Nữ Tu Bác Ái ở Montréal; dân chúng gọi họ là các "Nữ Tu Áo Xám" vì y phục họ mặc. Vào lúc ấy, những người nghèo ở Montréal thường nói với nhau, "Ðến với các Nữ Tu Áo Xám; họ không bao giờ bị từ chối giúp đỡ." Cho đến lúc bấy giờ, năm cộng đoàn tôn giáo khác được bắt nguồn từ các Nữ Tu Áo Xám.

Ðời sống của thánh nhân cho thấy con đường lịch sử của Giáo Hội, cũng như của một tình yêu chân chính, không bao giờ êm ả phải đi trên con đường khó khăn giữa sự khoan hồng "hợp lý" và sự nghiêm khắc "vừa phải."

Chúng ta có được những dữ kiện xác thực về vị thánh này là từ người thù địch với ngài, đó là Hippolytus, vị giáo hoàng đối lập đầu tiên, sau này đã tử đạo. Nguyên tắc phủ định được áp dụng: Nếu Callistus có làm điều gì sái quấy, chắc chắn Hippolytus sẽ nhắc đến.

Callistus là một nô lệ trong đám gia nhân của triều đình Rôma. Ðược giao cho công việc giữ tiền của chủ, ngài đánh mất tiền, bỏ trốn và bị bắt. Sau khi phục dịch một thời gian, ngài được thả ra để tìm lại số tiền. Vì quá hăng say, ngài lại bị bắt vì cãi nhau trong đền thờ người Do Thái. Lần này ngài bị đầy đi làm hầm mỏ ở Sardinia. Sau đó ngài được thả về nhờ sự can thiệp của bà vợ bé của hoàng đế, và sống ở Anzio.

Thánh nhân đã sáng lập một tu hội, kết quả của tình yêu mãnh liệt mà vì đó thánh nhân đã dành cả cuộc đời để hãm mình đền tội trong cô độc.

Thánh nhân được vinh dự là đã sáng lập một tu hội mà như người ta thường nói, không bao giờ phải cải cách vì dòng chưa bao giờ đi lạc đường. Chắc chắn là vị sáng lập cũng như các tu sĩ dòng sẽ từ chối lời khen ngợi này, nhưng đó là một kết quả của tình yêu mãnh liệt mà thánh nhân đã dành cả cuộc đời để hãm mình đền tội trong cô độc.

Ngài sinh ở Cologne, nước Ðức, và là thầy giáo nổi tiếng ở Rheims và được bổ nhiệm làm chưởng ấn của tổng giáo phận khi 45 tuổi. Ngài hỗ trợ Ðức Giáo Hoàng Grêgôriô VII chống lại sự suy đồi của hàng giáo sĩ và tiếp tay trong việc cách chức vị tổng giám mục gây nhiều tiếng xấu là Manasses. Dân chúng muốn đưa ngài lên làm tổng giám mục nhưng ngài lại muốn sống ẩn dật.

Ngài là một ẩn tu dưới quyền tu viện trưởng là Thánh Robert Molesmes (sau này sáng lập dòng Xitô), nhưng sau đó, vào năm 1084 cùng với sáu người bạn ngài di chuyển đến Grenoble. Họ được vị giám mục của Grenoble là Thánh Hugh cấp cho một nơi để sinh sống trong một vùng cao nguyên hoang vắng, được gọi là La Grande Chartreuse.

Cha Francis Xavier Seelos sinh ngày 11 tháng giêng năm 1819 tại Füssen, Bavaria, nước Đức. Ngài được rửa tội ngay ngày hôm đó tại nhà thờ St. Mang. Biểu lộ rõ ràng ước mơ làm linh mục từ thuở bé, ngài vào chủng viện giáo phận năm 1842, sau khi hoàn tất chương trình triết học.

Ngay sau khi gặp các thừa sai Dòng Chúa Cứu Thế mà ý hướng của họ là rao giảng Tin Mừng cho những người bị bỏ rơi nhất , ngài
quyết định vào dòng và nhận sứ vụ lo cho người nhập cư nói tiếng Đức tại Mỹ. Ngài được nhận vào dòng ngày 22 tháng 11 năm 1842, và năm sau, ngài vượt biển từ La Havre, Pháp, đến New York ngày 20 tháng 4 năm 1843.

Ngày 22 tháng 12 năm 1844, sau khi hoàn tất năm tập viện và chương trình thần học, Seelos được trao sứ vụ linh mục tại nhà thờ St. James của dòng tại Baltimore, bang Maryland, Hoa Kỳ. Sau khi được thụ phong, ngài làm việc chín năm ở xứ đạo St. Philomena, Pittsburgh, bang Pennsylvania. Đầu tiên, ngài làm cha phó giúp cho thánh John Neumann lúc ấy là bề trên cộng đoàn. Sau thời gian đó, ngài lên làm bề trên, rồi ba năm sau là linh mục chính xứ. Trong thời gian này, ngài cũng giữ chức vụ tập sư. Cùng với thánh Neumann, ngài hết lòng tận tụy với công việc giảng dạy. Seelos đã nói về mối tương quan của ngài với thánh Neumann như sau: “Ngài đã cho tôi thấy một đời sống hoạt động là như thế nào … ngài là cha linh hướng và giải tội của tôi”. Sự sẵn sàng và thân ái vốn có của Seelos khiến ngài thấu hiểu và đáp ứng đúng những nhu cầu của tín hữu, và vì vậy, ngài nhanh chóng nổi tiếng là một cha giải tội “nhà nghề”, một vị linh hướng kinh nghiệm. Người ta đến với ngài rất đông, ngay cả từ các thành phố lân cận.

Wir nutzen Cookies auf unserer Website. Einige von ihnen sind essenziell für den Betrieb der Seite, während andere uns helfen, diese Website und die Nutzererfahrung zu verbessern (Tracking Cookies). Sie können selbst entscheiden, ob Sie die Cookies zulassen möchten. Bitte beachten Sie, dass bei einer Ablehnung womöglich nicht mehr alle Funktionalitäten der Seite zur Verfügung stehen.